Từ một tiết học mới...
Xét về mặt lý thuyết, việc này rất tuyệt vời. Như trong môn Văn tôi dạy, sẽ không còn những khuôn mẫu của một giờ Văn theo lối dạy xưa: thày say sưa truyền thụ kiến thức uyên bác bằng giọng truyền cảm hấp dẫn, ru hồn học sinh. Trò chăm chú hứng lấy từng lời giảng “ngọt ngào”, “du dương”, “mê li” của thày, coi như những khuôn vàng thước ngọc, rồi cố chép lại cho đúng từng chữ từng câu, không sót ý nào. Thày hài lòng đã trút cạn tâm huyết. Trò an tâm đã học hết ý thày. Một tiết học lí tưởng. Một bài giảng thành công.
Bây giờ, một tiết Ngữ văn được tổ chức theo kiểu giao tiếp đa chiều: thày-trò; trò-trò; trò- thày.
Lớp học được tổ chức thành các nhóm trao đổi, thảo luận những vấn đề do thầy gợi ý. Thầy sẽ lắng nghe và cùng giải quyết bài học với sự tham gia của học trò. Ngoài ra thầy còn có thể sáng tạo những hình thức tổ chức giờ học như thuyết trình, kết hợp trắc nghiệm và thảo luận…
Cùng với yêu cầu đổi mới về phương pháp giảng dạy, cách tổ chức tiết học, giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách chủ động và tự giác, giáo viên còn được yêu cầu rèn luyện học sinh kĩ năng nói, viết thông qua đọc - hiểu các loại văn bản. Do đó giáo viên Ngữ văn trước tiên phải là người có khả năng “tích hợp” để thực hiện chương trình và sách giáo khoa được sọan thảo theo lối “tích hợp”: Văn - Tiếng Việt - Làm văn.
Yêu cầu tích hợp không đơn thuần chỉ thể hiện ở hình thức, ở sự “có mặt” của cả ba phân môn trong từng tiết học, bài học, mà còn là “linh hồn” thấm vào từng hoạt động dạy và học Ngữ văn.
...đến những khoảng cách còn xa
Tuy nhiên, giữa lí tưởng của công cuộc cải cách và thực tế giảng dạy văn học còn có những khoảng cách cần phải vượt qua.
Trước hết là khoảng cách giữa SGK và yêu cầu học sinh tự học, tự tiếp cận kiến thức mới.
Có những bài học từ nội dung văn bản đến những câu hỏi đọc - hiểu đều không dễ dàng đối với học sinh trong việc tự tìm hiểu, tự học. Ví dụ bài Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát (sách Ngữ văn 11 (bộ sách chuẩn), tập 1).
Có những bài, theo ý kiến của nhiều giáo viên, nội dung kiến thức quá “hàn lâm”, không mấy thiết thực đối với học sinh. Ví dụ bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (Ngữ văn 11). Chỉ cần đọc tựa bài đã đủ để học sinh... ngán.
Có những bài dành cho học sinh luyện tập nhưng hướng dẫn không cụ thể, trích đoạn mẫu không… mẫu mực. Ví dụ bài Thao tác lập luận phân tích (Ngữ văn 11).
Như vậy, bản thân SGK cũng đã có một khoảng cách vô hình cần được khắc phục. Đó là khoảng cách giữa mong muốn trở thành tài liệu chuẩn giúp học sinh tự học và thực trạng còn nhiều bài chưa chuẩn. Là khoảng cách giữa chủ trương phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập của học sinh và sự áp đặt những văn bản cụ thể phải đọc, “chỉ đạo” cho cả thày lẫn trò phải ủng hộ cả những trích dẫn chưa thật “tâm phục khẩu phục”.
Thầy giáo chúng tôi thường ước: phải chi SGK được viết với một… tinh thần dân chủ hơn! SGK nên giữ vai trò của người cung cấp tư liệu. Còn việc chọn lựa văn bản đọc - hiểu và những kiến thức, kĩ năng sử dụng Tiếng Việt và làm văn, hãy cứ để cho các “thảo dân” là thầy và trò được tùy nghi khai thác từ những văn bản đọc hiểu và những qui định của chương trình.
Cũng không thể không nói đến một khoảng cách, dù chưa thành hiện thực nhưng đã đã có những dự báo. Đó là khoảng cách giữa yêu cầu vận dụng được kiến thức đã học và cách kiểm tra, đánh giá như hiện nay (vẫn chủ yếu đặt nặng yêu cầu ghi nhớ, tái hiện kiến thức; phạm vi kiểm tra cũng chỉ dựa vào những bài được học trong chương trình, chứ chưa dám mạnh dạn đặt những vấn đề tương tự các nội dung đã học). Nếu vậy, làm sao có thể thực hiện được mục tiêu của cải cách việc dạy và học văn: dạy cho học sinh phương pháp giải quyết những vấn đề tương tự cách đọc hiểu văn bản, hoặc tương tự các vấn đề xã hội đã từng được nêu lên khi làm văn…
Quả thật, công cuộc đổi mới dạy văn, học văn đang được tiến hành, vừa hấp dẫn và kích thích niềm say mê cái mới, lại vừa khiến lòng băn khoăn, nghĩ ngợi về nhiều lẽ…
school@net (Theo http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=22959)
|