SÁCH QUỐC-VĂN GIÁO-KHOA THƯ
13/05/2010
Đôi lời thưa trước Cuốn sách Quốc-văn giáo-khoa thư – sách tập đọc và tập viết dành cho Lớp dự - bị lần đầu tiên được xuất bản vào năm 1935, sách do Nha Học – chính Đông – Pháp giao cho ông Trần Trọng Kim, ông Nguyễn Văn Ngọc, ông Đặng Đình Phúc và ông Đỗ Thận biên soạn. Cuốn sách này mới đây đã được Nhà xuất bản Thế giới phát hành năm 2000.
Đây là một cuốn sách rất quý giá, có giá trị sư phạm và văn học rất lớn mà cho đến ngày nay khó có một bộ sách nào sánh kịp với nó. Cuốn sách trở thành nhân chứng lịch sử một thời về nền giáo dục nói chung và việc học Tiếng Việt nói riêng của thời kỳ những năm đầu của thế kỷ XX.
Trong một thời gian dài, lớp lớp học sinh tiểu học thời bấy giờ đều được học tập và rèn luyện từ Bộ sách Tiểu học Tùng thư này. Mỗi bài học trong cuốn sách đều thật giản dị và đầy ý nghĩa nhằm bồi dưỡng những kiến thức cơ bản đầu đời cho các em nên người, những bài học dạy các em đạo lý làm con cháu hiếu thảo, lễ nghĩa với thầy cô, chan hòa với bạn bè và trở thành người giàu lòng tự trọng với tình yêu quê hương, đất nước, yêu đồng bào mình…
Và bởi chính những bài học đạo đức có giá trị sâu sắc đầy tính nhân văn đó mà trải qua bao nhiêu năm, cuốn sách ngày càng được trân trọng và giữ gìn.
Chúng tôi xin đăng tải lời tựa của cuốn sách Quốc-văn giáo-khoa thư của dịch giả Hữu Ngọc đến bạn đọc. Mời các bạn đón xem! LỜI TỰA
(của dịch giả Hữu ngọc)
Quốc-văn giáo-khoa thư
Trẻ con sống trong hiện tại, lớn lên sống trong tương lai, về già sống trong dĩ vãng. Nhận xét này do một cuốn sách tâm lý học phương Tây nêu lên phải chăng là một quy luật phổ biến? Tôi không có ý tranh luận ở đây.
Có điều là nhiều người cao tuổi, theo chỗ tôi biết, thích nghĩ về quá khứ, nhớ lại những sự việc và con người thuộc quá khứ có khi còn tinh tường hơn những sự việc và con người thuộc thời gian gần hơn, nhất là khi tuổi đã sắp “cổ lai hy”.
Tôi đã có dịp hỏi nhiều người Việt Nam tuổi ngoài sáu mươi (kể cả Việt kiều) đã từng theo học trường Tiểu học Pháp-Việt dăm sáu năm trước Cách mạng tháng Tám 1945: “Bác có nhớ sách Quốc-văn giáo-khoa thư không?”. Hầu như tất cả đều gợi lại một cách trìu mến bộ sách ấy với những câu khó quên: “Ai bảo chăn trâu là khổ?”, “Chỗ quê hương là đẹp hơn cả”, “Ôi cảnh biệt ly sao mà buồn vậy”… Có người còn đọc một mạch một số bài, không quên một chữ.
Cái gì đã khiến cho bộ sách 3 tập dạy Việt Văn cho trẻ 7-8-9 tuổi do chính quyền thực dân Pháp cho soạn để phục vụ một nền giáo dục cơ bản là ngu dân mà lại để lại những rung cảm lưu luyến trong lòng những thế hệ 60-70 tuổi đã từng kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến thắng lợi Điện Biên Phủ?
Lý do thứ nhất có lẽ là lý do tâm lý. Trừ những trường hợp thật bi đát, khi nghĩ về quá khứ, nhất là về thời thơ ấu, người ta thường nhớ đến cạnh khía đẹp hơn cạnh khía xấu, - thời gian tô vẽ nó đẹp hơn thực tế sống.
Lý do thứ hai là có sự đan xen giữa hai hiện tượng chế độ thực dân và tiếp biến văn hóa (acculturation). Tuy Quốc-văn giáo-khoa thư chỉ là sách cho trẻ em, nó cũng phản ánh khá rõ rệt hai hiện tượng ấy.
Tuy Quốc-văn giáo-khoa thư chỉ là sách cho trẻ em, nó cũng phản ánh khá rõ rệt hai hiện tượng ấy.
Thực chất của chủ nghĩa thực dân, con đẻ chủ nghĩa đế quốc, là xâm chiếm đất của các dân tộc nhược tiểu để bóc lột làm giàu. Nó được ngụy trang bằng lý thuyết “nhiệm vụ người da trắng khai hóa cho người da màu”, “mang văn minh đến cho các dân tộc lạc hậu”. Giáo dục được quan niệm qua lăng kính này. Và Quốc-văn giáo-khoa thư là một công cụ phục vụ chính sách thực dân pháp, do Nha học chính Đông Pháp xuất bản từ những năm 20. Dĩ nhiên, sách có một số bài (tỷ lệ không nhiều) đề cao công cuộc “khai hóa” của thực dân pháp, như: Ông Paul Bert (toàn quyền), - Nước có trị thì dân mới an (Chính phủ Bảo hộ dẹp loạn), - Hà Nội, kinh đô mới ngày nay, - Đường xe lửa chạy suốt xứ Đông Pháp… Hẳn là một số thành tích này là có thật, nhưng được thực hiện không do mục đích nhân đạo mà do mục đích cuối cùng là tạo điều kiện để khai thác thuộc địa. Còn những biện pháp bóc lột đàn áp dã man thì không nói đến.
Bỏ phần tiêu cực đi, phần tích cực còn lại của Quốc-văn giáo-khoa thư có lẽ là chủ yếu. Nhớ lại, hồi còn bé, khi đi học, những cái gì là “nịnh tây” chúng tôi đều coi thường, có lẽ trong tiềm thức của người dân mất nước đã sẵn có chất men phản kháng.
Còn lại là những bài phản ánh sự “tiếp biến văn hóa” Việt (phương Đông)-Pháp (phương Tây) theo nghĩa tốt của nó. Song song với ảnh hưởng chủ nghĩa thực dân, nhiều khi ngoài ý muốn của chủ nghĩa thực dân, nền văn hóa Việt Nam đã biết tiếp thu cái mới của phương Tây và bảo tồn cái gốc của phương Đông, của bản sắc dân tộc.
Trong Quốc-văn giáo-khoa thư, trẻ em Việt Nam đã học hỏi, làm quen với lời văn giản dị, khúc triết của ngôn ngữ Pháp, với các kiến thức khoa học như: Bệnh ghẻ, Mây và mưa, Con ong, Đau mắt, Bệnh chó dại, Tinh tú…
Cái quan trọng nhất mà các thế hệ kháng chiến chống Pháp trìu mến trong Quốc-văn giáo-khoa thư là các tác giả, bằng những bài không quá 200 chữ, đã kết tinh được hồn văn hóa dân tộc, đặc biệt nâng niu tình yêu gia đình, làng xóm, quê hương, lịch sử oai hùng của cha ông. Người Pháp có một kẽ hở trong chương trình giáo dục các cấp, do đánh giá chủ quan: họ không cho học môn lịch sử ở bậc đại học, chỉ cho học lịch sử nước Pháp ở ban tú tài mà học sinh Việt Nam đã thấm nhuần ý tưởng tự do, độc lập dân tộc của Cách mạng Pháp 1789. Trong Quốc-văn giáo-khoa thư những bài về lịch sử Việt Nam dĩ nhiên không nói gì đến phong trào chống Pháp mà chỉ hướng về những cuộc nổi dậy chống xâm lược Trung Quốc (Chị em Bà Trưng, Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn…). Có lẽ với ý đồ chĩa mũi dùi vào Trung Quốc, coi đó là kẻ thù chính của Việt Nam, chứ không phải là Người Pháp (Giặc khách ở Bắc Kỳ). Nhưng chính những bài ấy lại thổi bùng ngọn lửa yêu nước chống mọi ngoại xâm (kể cả Pháp).
Ngoài ra một mảng lớn các bài (kể cả ca dao) ca ngợi cái đẹp của đời sống nông thôn (Làng tôi, Chỗ quê hương, Rủ nhau đi cấy, Công việc người làm ruộng…), đề cao những đức tính lao động, hiếu thảo, tình thày trò, tình thương yêu đồng loại… trong khuôn khổ không học và nền đạo lý dân gian.
Vì những lý do trên, Việt kiều ở Pháp đã tái bản Luân-lý giáo-khoa thư cho con em học tiếng Việt và gắn với quê hương, và ở Hà Nội, một cuốn sách phụ đạo về luân lý đã in lại một số bài trong đó. LỜI NGƯỜI DỊCH “Sự hiểu biết về tổ quốc là nền tảng của mọi nền học vấn đích thực”. Câu nói mở đầu lời tựa cho cuốn “Hai đứa trẻ đi vòng quanh nước Pháp” (1905) ấy cũng có thể ghi lên trang đầu cuốn sách này.
Đây là cuốn sách tập đọc bằng chữ quốc ngữ cho học sinh lớp dự bị (bản xứ) dưới thời Pháp thuộc. Cuốn sách được Nha học chính Đông Pháp đặt biên soạn từ những năm 1930, giữa thời kỳ “Bảo hộ”.
Ngày nay, việc đọc lại nó sẽ khiến những người đã từng sống qua cơn Bão táp lớn mỉm cười buồn rầu pha chút buồn nhớ nhung: chính tả đã thay đổi, cách hành văn thường cổ lỗ và mang phong cách tỉnh lẻ, các ý trong bài học và các bài tập có vẻ trịnh trọng quá mức và “lạc hậu”.
Chính vì thế mà nó trở thành một nhân chứng lịch sử có thể hấp dẫn không chỉ người Việt Nam còn nói tiếng pháp, mà cả con cái của những người xa xứ muốn tìm lại đôi chút cội rễ của mình. Những bài khoa học thường thức đơn giản và trực tiếp này sẽ giúp họ tìm thấy hoặc tìm lại được nhiều nét của văn hóa Việt Nam.
Việc dịch cuốn sách này được ông Hữu Ngọc, chuyên gia xuất sắc về văn hóa Việt Nam cũng như văn hóa Pháp, gợi ý. Nhằm mục đích làm cho độc giả nói tiếng Pháp có thể hiểu được bản gốc tiếng Việt, bản dịch này bám sát bản gốc ở mức độ cao nhất có thể. Không tham vọng, nhằm tính giản dị, bản dịch này có thể có vẻ khá tẻ nhạt, đôi khi vụng về, nhưng độc giả sẽ dễ dàng tưởng tượng ra một bản dịch đúng hơn với cái thần của ngôn ngữ. Cách trình bay như vậy là cần thiết cho việc học tiếng Việt, và hiểu biết tiếng việt đi đôi với sự tồn tại của tiếng Pháp ở Việt Nam, bởi vì các trao đổi văn hóa và ngôn ngữ phải được tiến hành từ cả hai phía. Đối với tôi, việc dịch đúng từng từ đã giúp tôi học được nhiều điều mà trước đây tôi không chú ý lắm.
Tôi đã mất không ít công sức để thể hiện lại bản gốc một cách trung thực nhất. Nguyễn Ngọc Ánh đã giúp tôi sửa một số nhầm lẫn và thường giúp tôi hiểu được sắc thái chính xác của từ. Về nguyên tắc, tôi là người duy nhất chịu trách nhiệm về những nhầm lẫn còn sót lại. Việc xuất bản một cuốn sách kiểu này, với minh họa từ thời đó, chỉ có thể thực hiện được về mặt kỹ thuật và tài chính ở Việt Nam. Tôi cảm ơn Nhà xuất bản Thế Giới đã nhận trách nhiệm ấy.
Hy vọng rằng cuốn sách này, ngay cả bản dịch tiếng pháp của nó, cũng sẽ là một niềm vui, có thể là xen lẫn chút nhớ nhung, đối với các bạn học của tôi ở Trường Puginier, Trường trung học Albert Sarraut và Trường Luật ở Hà Nội. Độc giả nào muốn biết nhiều hơn nữa, xin tham khảo những tác phẩm sau (phần lớn không thể tìm thấy nữa hoặc chỉ có các bản in lậu): - Phạm Quỳnh, Le paysan tonkinois à travers le parler populaire, Hanoi, 1943.
- Pierre Huard et Maurice Durand, Connaissance du Vietnam, Paris-Hanoi,1945.
- Dương Đình Khuê, La littérature populaire vietnamienne, Saigon, 1967; réédition Bruxelles, 1967.
- Lê Thành Khôi, Aigrettes sur la rizère, Paris, 1995.
- Hữu Ngọc, Esquisses pour un portrait de la culture vietnamienne, Hanoi, 1995.
- Hữu Ngọc, Esquisses pour un portrait de Hanoi, Hanoi, 1997.
- Hữu Ngọc, Dictionnaire de la culture traditionnelle du Vietnam, Hanoi, 1997.
Tôi đã sử dụng rất hiệu quả các tác phẩm sau này:
- Victor Barbier, Miss. ap., Dictionnaire Annamite-Francais, 3e édition, Hanoi-Haiphong, 1929.
- Alfred Léon Bouchet, Lexique Annamite-Francais, 4e édition, Haiphong, 1934.
- Gustave Hue, Miss. ap., Dictionnaire Vietnamien-Chinois-Francais, 1937, Trung Hòa, nouvelle édition, Saigon, 1991.
- Dictionnaire Vietnamies-Chinois, You Feng, Paris s.d.
Louis Sizare
Luxembourg
Tết Canh Thìn - 2000
1. Tràng học vui
2. Ngày giờ đi học
3. Đi học để làm gì?
4. Lịch sử nước ta
5. Khuyến hiếu đễ
6. Mau trí-khôn
7. Người ta cần phải làm việc
8. Làng tôi
9. Chọn bạn mà chơi
10. Khuân tảng đá
11. Nội-thuộc nước Tàu
12. Ông Tôi
13. Bà ru cháu
14. Cây sen
15. Truyện hai chị em bà Trưng
16. Chuyện người Thừa-Cung
17. Đồ làm ruộng
18. Bịnh ghẻ
19. Bịnh ghẻ (tiếp theo)
20. Học-trò chăm học
21. Học-trò lười-biếng
22. Chữ nho
23. Nên giúp đỡ lẫn nhau
24. Lễ phép với người tàn-tật
25. Cày cấy
26. Truyện ông Ngô-Quyền
27. Mây và mưa
28. Thợ làm nhà
29. Chăn trâu
30. Vua Lý Thái-tổ dời đô ra thành Hà-nội
31. Chỗ quê hương đẹp hơn cả
32. Ngoan (giỏi) được khen, hư phải chê
33. Con ong
34. Ông Trần-Quốc-Tuấn
35. Mấy lời khuyên về vệ-sinh
36. Ngày giỗ
37. Bữa cơm ngon
38. Ông Lê-Lai liều mình cứu chúa
39. Tối ở nhà
40. Con cò mà đi ăn đêm
41. Ta không nên ngã lòng
42. Truyện gươm thần của vua Lê-Lợi
43. Cái cày
44. Con trâu
45. Con chim với người làm ruộng
46. Vua Lê Thánh-Tôn
47. Kính trọng người già cả
48. – Lòng thương kẻ tôi-tớ
49. Học-trò biết ơn thầy
50. Các khoa thi
51. Học thuộc lòng
52. Làm người phải học
53. Chùa làng tôi
54. Mưa dầm gió bấc
55. Cơn mưa
56. Đứa bé và con mèo
57. Ông Nguyễn- Kim
58. Trang-sức
59. Ăn mặc phải giữ-gìn
60. Một cái thư
61. Ông tổ sáng nghiệp nhà Nguyễn: ông Ngyễn-Hoàng
62. Thư gửi mừng thầy học
63. Cái cò, cái vạc, cái nông.
64. Chim sơn-ca(chuyện-chuyện)
65. Lũy Đồng-hới
66. Con chuột
67. Ở sạch thì không hay đau mắt
68. Lý-trưởng làng ta
69. Cố Alexandre de Rhodes và việc đặt ra chữ quốc-ngữ
70. Tuần phu
71. Thú thật
72. Đi câu
73. Người đi cấy
74. Da
75. Người ta cần phải vận-động
76. Ba thầy thuốc giỏi
77. Phải có thứ tự
78. Rau muống
79. Bắp ngô
80. Gừng và riềng
81. Chuyện ông Tử-Lộ
82. Phải bạo-dạn mới được
83. Truyện Sơn- tinh, Thủy- tinh
84. Anh em phải hòa thuận
85. Bịnh chó dại
86. Đền Ngọc-sơn ở Hà-Nội
87. Không đánh đáo
88. Tiếng động ban đêm
89. Gió
90. Các lăng-tẩm ở Huế
91. Công nghệ
92 . Người đi buôn thật thà
93. Chơi đùa không phải là vô ích
94. Ông vua có lòng thương dân
95. Mặt trời
96. Mặt trăng
97. Các cách đi thủy đi bộ
98. Cối giã gạo
99. Nhà ở phải sạch-sẽ và có ngăn-nắp
100. Các tinh-tú
101. Công việc của người làm ruộng
102. Viện Pasteur
103. Nghỉ hè/a>
104. Ông già với bốn người con
105. Người khôn hơn loài vật
|