Cong ty Cong Nghe Tin hoc Nha truong http://www.schoolnet.vn

GS Nguyễn Tài Cẩn qua lời kể của người học trò xuất sắc
16/03/2011

GS.TS, NGND Nguyễn Tài Cẩn, sinh ngày 22/5/1926, nguyên Chủ nhiệm bộ môn Ngôn ngữ học, khoa Ngữ Văn, trường Đại học tổng hợp Hà Nội, nguyên giáo sư kiêm nhiệm khoa Ngôn ngữ học, trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN. Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ năm 2000, đã từ trần hồi 19h04’, ngày 25/02/2011 tại nhà riêng ở Matxcơva, Cộng hòa liên bang Nga, thọ 85 tuổi.


Chúng tôi xin trân trọng gửi đến bạn đọc bài viết của GS.TS.NGND Đinh Văn Đức, nguyên Chủ nhiệm khoa Ngôn ngữ học, trường ĐHKHXH&NV về giáo sư Nguyễn Tài Cẩn.

Vài tiểu khúc về thầy tôi

Cách đây năm năm, vào dịp GS Nguyễn Tài Cẩn, nhà khoa học và văn hóa, bậc trưởng lão nổi tiếng của ngôn ngữ học nước nhà, tròn bảy mươi tuổi, tôi có viết một bài nhỏ: "Thầy tôi" để kính thầy. Năm nay (2000), thầy bảy mươi lăm tuổi, vừa có vinh dự được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học. Dịp này cũng đúng lúc ngành Ngôn ngữ học trường ta sắp kỷ niệm bốn mươi lăm năm hoạt động. Tôi muốn viết đôi lời để mừng tiếp. Tuy nhiên, cảm xúc không thể lặp lại cho nên tôi coi bài viết lần trước là tiểu khúc thứ nhất, và lần này là tiểu khúc thứ hai. Và cũng xin mượn lời PGS Mã Giang Lân:

“Cuộc vui nhớ buổi hôm nay,

Chén mừng xin hẹn ngày thầy tám mươi”

Tiểu khúc thứ nhất

Năm nay (1996), thầy tôi, GS Nguyễn Tài Cẩn bảy mươi tuổi. Tôi muốn viết đôi dòng như lời tri ân ông của một người học trò. Nhưng thấy khó quá!

Thầy tôi học rộng, tài cao mà trang giấy nhỏ thì chỉ nói được ít ý. Vả lại, tính ông rất khí khái, Nho giáo “thấm sâu vào xương tủy” (Lời GS Phan Ngọc), không muốn người khác nói về mình và tự mình cũng không muốn nói về chữ “Ngã”.

Thuở còn đi học phổ thông, một thầy tôi lúc đó - GS Vũ Ngọc Khánh - trong một lần chê tôi không biết trình bày bảng đã nói: “Tôi có ông bạn là Nguyễn Tài Cẩn, bậc tài hoa, chữ viết rất đẹp, viết bảng khó ai bì. Anh mà được học ông ấy thì được nhiều điều lắm”. Một lần khác, thầy Đặng Văn Đại, dạy tôi ở cấp II, lại nói với cha tôi: “Anh Nguyễn Tài Cẩn vừa đỗ Phó bác sĩ ¹ ở Liên Xô cùng với anh Nguyễn Toàn Cảnh”.

Cha tôi vui và giải thích cho tôi: “Bác Cẩn là trưởng ban Tu thư cũ của ba ở Sở Giáo dục Liên khu 4 ngày trước, bác ấy là người giỏi lắm”.

Thế rồi sau đó ít năm tôi vào khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Cuối hè năm thứ hai (1962), dọc con đường trồng cây hoa phượng ở cư xá khoa Ngữ - Văn tại làng Láng, tôi thấy có một người đội mũ phớt, đeo kính mát, mặc com-lê dắt xe máy vào khoa.

Lớp sinh viên thì thầm bảo nhau: “Thầy Nguyễn Tài Cẩn đấy!”. Ký ức của tôi thức dậy, cộng với tính tò mò của tuổi trẻ, tôi lân la đến gần ông, nhưng không biết thêm được điều gì.

Mấy ngày sau, tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy chính ông trong bộ đồ rất giản dị ngồi hút thuốc lào ở hàng nước cạnh cổng trường, tác phong rất thoải mái, còn học trò lớp trên thì xúm xít quanh ông cười nói cực kỳ vui vẻ với thầy… thế rồi, sau đó cơ may đã cho tôi, trong suốt 35 năm qua, được sống, làm việc bên thầy, thầy đã dìu dắt nhiều thế hệ, trong đó có tôi, trưởng thành cùng với nền Ngữ học Việt Nam.

Con người khoa học của GS Nguyễn Tài Cẩn có thể tóm tắt trong 8 chữ: “Sâu sắc - thông thái - tài hoa - nghiêm khắc”. Mỗi chữ chỉ cần nêu một ví dụ. Với việc mô tả thành công danh ngữ tiếng Việt, đi xa tới mức, có lúc coi “loại từ” là trung tâm, ông đã đặt lại cả hệ thống miêu tả cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt (1960). Với việc đặt đúng cương vị ngôn ngữ học của “tiếng một” ông đã khẳng định ảnh hưởng bao quát của đặc trưng “đơn lập” này đối với tiếng Việt (1960). Những tư tưởng đó rất sâu sắc, ngày nay đã trở thành những nội dung cơ bản của các cuộc thảo luận khoa học về tiếng Việt.

Là người thông thái, ông am hiểu tường tận Ngôn ngữ học, Hán - Nôm, ngôn ngữ học lịch sử, các lĩnh vực của Việt ngữ học. Diện mạo của công trình của ông thật quảng đại mà lĩnh vực nào cũng rất sâu sắc. Ông hiểu cổ và hiểu kim, bắt rất nhanh những vấn đề của ngôn ngữ học hiện đại trong lúc có thể thảo luận và đề xuất những ý kiến rất độc đáo về cổ ngữ học.

Thầy Cẩn cũng là một bậc tài hoa, ông dồi dào thi tứ, làm thơ rất nhanh và hay, đặc biệt là thơ chữ Hán. Tuyển thơ ông chắc chắn ông được coi là một trong những nhà thơ chữ Hán cuối cùng của thế kỷ này. Ở giảng đường khoa Việt học ở Đại học Paris 7 có đôi câu đối chữ Nôm trên giấy hồng điều đã ngả màu, chữ viết rất đẹp, khuyên học trò phải gắng học. Đó là câu đối của GS Nguyễn Tài Cẩn tặng khoa, lần đầu nhìn thấy bất giác tôi nhớ một lời thơ xưa của Yến Lan:

“Thầy giáo tôi khi tới buổi đầu,

Một hòm sách cũ, tầm màn nâu

Đôi câu liễn giấy long hồ điệp

Nhán nhấm dài theo nét mực tầu”.

TS Vũ Đức Nghiệu, ở khoa tôi, kể với tôi rằng ở khoa Đông Nam Á, Đại học Cornell bên Hoa Kỳ cũng có treo một câu đối Nôm khác của Thầy với nội dung khuyên bảo học trò mà thầy đã tặng khi qua đó thỉnh giảng.

Nói tài hoa của thầy còn phải nhắc đến một người thầy có phương pháp sư phạm cực giỏi. Ông truyền đạt những điều cực kỳ trừu tượng cho sinh viên bằng một lối nói hết sức cụ thể, sinh động nhiều lúc pha màu sắc dí dỏm, dân dã, học xong không bao giờ quên được.

Về tính nghiêm khắc trong khoa học của thầy thì có rất nhiều câu chuyện. Gần thầy, tôi bị thầy mắng mỏ rất nhiều và khuyên bảo chí tình. Một chuyện vui: Có lần một sinh viên làm luận văn với thầy, vì không làm đúng lời thầy nên trốn biệt. Ít lâu sau, lo thi tốt nghiệp, sinh viên ấy đành phải đến gặp thầy. Anh này mang theo chè, thuốc đến tạ thầy. Thầy nhận ngay, nhưng sau đó bắt sinh viên ấy phải ở lại luôn nhà thầy nấu cơm ăn, viết cho đến lúc kỳ xong luận văn mới thôi.

Các giai thoại về thầy thì nhiều nhưng vượt lên tất cả là cái tâm xây dựng ngành Ngôn ngữ học Việt Nam. Suốt đời thầy chỉ hướng vào một mục đích là đào tạo và xây dựng học thuật, xây dựng đội ngũ, xây dựng theo hướng chính quy, hiện đại nhưng không xa rời thực tế Việt Nam. Những công việc chuyên môn chưa làm được, thầy rất buồn. GS Hoàng Trọng Phiến đã nói rằng: “GS Nguyễn Tài Cẩn đã thổi một luồng không khí mới vào ngành ta, đã đào tạo bao nhiêu học trò cho ngữ học nước ta, ông xứng danh với những danh hiệu cao quý của khoa học”.

Thầy tôi suốt đời sống giản dị, giản dị tới mức đạm bạc, tuy ông không thiếu thốn gì. Khi ở nhà cũng như khi đi ra nước ngoài, ông luôn giữ một phong cách riêng mà ông vẫn thường nói là của “Người xứ Nghệ”.

Vào dịp ông 70 tuổi ta, ở xa quê, tôi nhớ tới thầy và trong một đêm đông tuyết lạnh tôi viết mấy vần thơ Đường luật vụng về, gửi đến thầy nơi quê nhà:

“Thấm thoát thầy ta đã bảy mươi,

Dặm dài năm tháng những buồn vui,

Một đời dạy dỗ tâm trong sáng

Ba bước phong trần dạ có nguôi.

Học trò lớp lớp bao tôn kính,

Bầu bạn xa gần những đón mời.

Trà rót minh niên buồn cố sự

Bính Dần lòng đạo chẳng pha phôi”.

(Québec, 1995)


Tiểu khúc thứ hai

Năm năm sau. 2000.

Thời gian đi nhanh thật. Thầy tôi đã bảy mươi lăm tuổi, còn lớp học trò Ngôn ngữ học của thầy năm ấy, cả bọn chúng tôi bây giờ đều đã ngót nghét lục tuần. Thấy thầy còn khỏe và nhanh nhẹn, chúng tôi mừng lắm. Nhưng thầy lại bảo chúng tôi là: “Tôi chỉ mong cho khỏe mà làm việc, nếu tôi thọ bằng ông cụ tôi thì cũng chỉ còn được mấy năm nữa! Phải cố mà viết cho xong các dự định”. Tôi giật mình. Từ ngày nghỉ hưu, thầy làm việc tối ngày, bận hơn lúc tại chức. Viết sách. Tiếp sinh viên, nghiên cứu sinh. Hướng dẫn các cán bộ trẻ. Thầy muốn truyền thụ kiến thức và cả tính trung thực và nghiêm khắc trong khoa học. Chuyện khoa học thầy chẳng bỏ qua chi tiết nào. Nghe con gái tôi theo nghiệp của cha, một hôm thầy gọi tôi đến nói: “Tôi mới đọc một bài của cháu viết, anh nên chú ý rèn cho cháu thói quen đi vào khảo sát các tư liệu nhiều hơn, trước khi cháu bàn vào những chuyện lớn hơn”. Tôi ngạc nhiên và xúc động, tự trách mình vì chính tôi cũng chưa dành thì giờ đọc bài của cháu. Nhớ lại, xưa thầy đã từng dạy tôi như thế, nay thầy lại qua tôi mà dạy con tôi.

Từ ngày nghỉ hưu thầy đã viết và cho xuất bản ba cuốn sách. Toàn những cuốn suy nghĩ cả một đời người, nghe tên đã thấy khó: “Ngữ âm lịch sử tiếng Việt”, “Hán văn Lý - Trần”... Nay thầy lại đang viết sắp xong sách “Cổ Hán - Việt”, rồi còn định viết tiếp về Hán ngữ trong các nước khu vực, làm Từ điển từ nguyên tiếng Việt (đã xong đến vần C). Nhân việc này tôi nhớ đến hai mẩu chuyện về thầy.

Ông GS Keith Taylor là nhà Việt Nam học có tiếng ở Mỹ, chuyên gia về Ngữ văn và lịch sử Lý - Trần, xin theo học thầy một khóa chữ Nôm, ông kể lại sau khóa học là đã rất ngạc nhiên gặp một nhà học giả Việt Nam uyên bác, thân thiện nhưng rất nghiêm, có phương pháp giảng dạy rất lạ, rất ngôn ngữ học mà có tính thực hành cao, có hiệu quả rõ rệt. Ông đã học với thầy được gần 500 chữ Nôm phổ dụng nhất và còn biết cả cách dùng nó để đọc văn bản, chỉ sau một thời gian ngắn chăm chỉ học.

Một lần khác, có bà giáo sư ở Đại học Sư phạm Hà Nội dạy văn học Việt Nam đã giới thiệu một anh sinh viên người Mỹ đến gặp thầy để học về ngôn ngữ ca dao Việt Nam. Anh này giỏi tiếng Việt, tưởng thầy cho nghe một số bài giảng và minh họa, ghi chép rồi mang về. Ai dè thầy không làm thế. Thầy kiểm tra tiếng Việt, nói qua về nguyên tắc ngôn ngữ của ca dao, giới thiệu một vài kỹ thuật làm ca dao rồi ra bài tập bắt anh này về nhà theo đó mà tập làm cho được ca dao, rồi sau một tuần mang đến để thầy chữa.

Lúc đầu khó lắm, nhưng cứ phải gắng tập, sau đó cũng làm được. Thầy khen, chữa, đến khi hiểu được những điều cơ bản qua thực hành rồi thầy mới giảng giải lý thuyết. Thầy kể là có lần anh sinh viên ấy đã tập viết được mấy câu:

“Tôi đến Hà Nội đã lâu,

Biết hồ Hoàn Kiếm, biết cầu Chương Dương,

Tham quan băm sáu phố phường,

Tưởng như gặp lại quê hương thứ nhì”

Thầy bảo tuy chưa hay, nhưng đúng luật, như thế là giỏi và đáng trân trọng lắm.

Cách đây không lâu, có một tin vui. Năm nay Nhà nước xét tặng giải thưởng khoa học Hồ Chí Minh đợt II cho các công trình khoa học xuất sắc của nước ta. Cụm công trình: “Các vấn đề Ngữ pháp và Lịch sử tiếng Việt” của GS Nguyễn Tài Cẩn là một trong số rất ít các công trình khoa học của khối Ngữ - Văn vượt qua được bốn vòng bỏ phiếu nghiêm ngặt của giới khoa học nước nhà trước khi trình Nhà nước.

Thầy đang ở nước ngoài, tôi gửi thư điện tử báo tin. Mấy hôm sau, nhận được thư thầy. Thầy vui vì đã được đồng nghiệp tín nhiệm, nhưng nói ngay với tôi là phải lo làm việc trước khi nghĩ đến được khen. Hai năm trước, thầy được Nhà nước tặng Huân chương Lao động hạng Nhất, lúc ấy thầy vắng nhà, khi về, thầy xúc động nói với anh em trong chi bộ: “Tôi theo Đảng sắp 50 năm, lúc nào cũng phải gắng làm người cộng sản trung thực và nhất quán”.

Nhớ năm 96, khi thành lập khoa Ngôn ngữ học ở trường ta, chúng tôi đều vui, thầy cũng vui, nhưng sau đó trầm ngâm nói với tôi: “Lập khoa là để lo nghĩ cách mà phát triển đào tạo và học thuật, gắng đừng để tụt hậu nhiều so với quốc tế, còn lập khoa mà chỉ để cát cứ hành chính thì rất không nên. Các anh phải luôn nghĩ đến sự liên thông, không chỉ giữa ngôn ngữ học với văn học mà cả với các chuyên ngành khác nữa, và phải gắng nghĩ xa, nghĩ dài hơi, có nhiều cái phải rất kiên trì mới mong thấy kết quả”.

Thầy khuyên chúng tôi sống giản dị, làm khoa học đừng chạy theo hình thức vì dễ nhiễm tính giả dối. Nhắc chuyện xưa thầy kể: “Hồi ở Liên khu 4, có lần được bầu làm chiến sĩ thi đua, mình được văn phòng Khu ủy thưởng cho hai điều: một là được ưu tiên tắm xà phòng mỗi tuần một lần và hai là được phép húp nước cơm trước, mỗi buổi chiều, ở bếp tập thể trong mấy tháng, nhờ đó mà khỏi phù thũng. Nước ta nghèo như vậy đấy, nay có khá hơn, nhưng chưa thể xa hoa được. Khoa học, công nghệ chưa phát triển còn chưa giàu được nhanh đâu”.

Tôi cảm động.

Thầy tôi, mỗi lần nghĩ đến thầy, tôi thấy một nhân cách khoa học lớn, một trí tuệ lớn của một người can đảm đi vào cái mới mà vẫn giữ truyền thống, luôn luôn nghĩ đến phát triển. Cái tuổi thầy nghe nói cũng khá vất vả, nhưng thầy tôi đã luôn luôn: “Bính Dần lòng đạo chẳng pha phôi”.

Hà Nội, vào thu năm 2000


Thầy tôi - Tiểu khúc thứ ba, những điều chưa nói

Mười năm trước, khi thầy bảy mươi, tôi đã viết tiểu khúc thứ nhất.

Chúng tôi nói với thầy:

Cuộc vui nhớ buổi hôm nay,

Chén mừng xin hẹn ngày thầy tám mươi.

Rồi cái ngày ấy đã đến rất nhanh. Nhanh như thời gian tăng tốc.

Thầy tôi nay đã tuổi tám mươi tròn. Nhìn thầy vóc dáng vẫn nhanh nhẹn tuy lưng thầy có còng hơn, tóc thầy có bạc hơn:

Mười năm thầy có già thêm,

Quê hương, thế sự, lắm đêm nghĩ nhiều.

Nhưng trong khoa học thì tư duy thầy vẫn trẻ trung, say mê sáng tạo và công trình của thầy thật hoành tráng. Giữa đường thầy đã nhận Giải thưởng Khoa học Hồ Chí Minh, thầy bước lên đài vinh dự cùng với các tên tuổi tiền nhiệm: Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Trần Đức Thảo, Đặng Thai Mai, Trần Văn Giàu…

“Bính dần lòng đạo chẳng pha phôi” là bản lĩnh của thầy.

Được bắt đầu từ một gợi ý văn chương của học giả Hoàng Xuân Hãn trước đó hơn mười năm là phải chăng có thể dựa vào các chữ kỵ húy trong văn bản truyện Kiều mà tìm hiểu lai lịch của bản Kiều gốc qua các diễn tiến.

Thầy tôi đã trăn trở, lao tâm khổ tứ và quyết định đi vào một vấn đề đến nay chưa ai làm: đem phương pháp của Ngôn ngữ học lịch sử nghiên cứu văn bản. Thầy khởi đầu với bản Kiều Duy Minh Thị (1872). Một nghiên cứu tư liệu đồ sộ đã được công bố. Rồi sau đó là sách lớn nghiên cứu về các văn bản Kiều Nôm thế kỷ 19. Thầy, bằng cách tiếp tục nghiên cứu các chữ húy kỵ trong truyện, đã mạnh dạn là người thứ nhất đưa ra đề xuất mới về thời điểm Nguyễn Du sáng tác truyện Kiều khi nhà thơ vừa ngoài ba mươi tuổi (1787 - 1790). Những bài viết gần đây của thầy mang tính khai phá đã gây xôn xao dư luận giới nghiên cứu cổ học về những ý tưởng mới, rất mạnh bạo mà có cơ sở khoa học.

Khi thầy 70 tuổi, tôi đã kính thầy mấy vần thơ viết thư nơi xa (1), nay thầy 80, lại cũng từ nơi xa, tôi xin gửi đến thầy mấy vần họa tiếp:

Mới đó thầy ta đã tám mươi,

Tháng ngày tâm lực có đâu ngơi.

Mười năm sáu sách nên danh phận,

Mấy chốc ngàn trang phải chuyện chơi.

Thầy nêu gương sáng cho đời trẻ,

Trò học đạo thầy đến bở hơi,

Thầy khỏe, thầy vui, thầy sướng thế,

Bạn bè, đồ đệ khắp nơi nơi.

(Seoul, 5.2005)

Bài thơ này kính thầy, 2005, viết ở Seoul, tôi gửi thầy vào dịp sinh nhật thầy. Mấy hôm sau tôi nhận được một bức thư rất cảm động của thầy, kèm theo là một bài thầy đáp lại:

“Tám mươi đâu đã chẵn là trăm,

Chúc thọ còn nhiều, năm lại năm.

Vẫn gắng Yoga: theo Đạo thuật,

Vẫn thường thư giãn: định Thiền tâm.

Vẫn như Trang Tử: vui đời bướm,

Vẫn học Ngu Công: rút ruột tằm

Sống: ở, thác: về, tùy phận, phúc

Ấy lời đáp tạ khách tri âm.”

(20/5/2005, từ Maxcơva)

Thành công liên tục trong học thuật của thầy tôi chính là ở chỗ ông có một phương pháp tư duy rất hiện đại và đúng đắn. Thầy nắm rất vững các nguồn lý luận ngôn ngữ học ở các bối cảnh lịch sử khác nhau. Mạnh dạn nhưng cẩn trọng, thầy đã ứng dụng có kết quả các lý thuyết ngữ học vào tư liệu bản ngữ, cả hiện đại và lịch sử, mở ra những ý tưởng rất mới.

Thưa thầy, chúng tôi hiểu rằng nhiều lúc vẫn chưa làm thầy ưng ý, nhưng chúng tôi luôn an tâm có thầy ở bên chỉ bảo. Chúng tôi vẫn nói với nhau thầy là người Quân tử, cả đời thầy khi xếp hàng thì luôn luôn đứng sau, nhưng chính là đứng trước vậy.

Nay thầy Bát tuần, nhìn thầy còn mạnh và minh mẫn. Chúng tôi thấy ấm lòng.

Hán Thành, Hè năm Ất Dậu, 2005

NGND, GS.TS Đinh Văn Đức



URL của bài viết này::http://www.schoolnet.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=5175

© Cong ty Cong Nghe Tin hoc Nha truong contact: sales@schoolnet.vn