Cong ty Cong Nghe Tin hoc Nha truong http://www.schoolnet.vn

100 Khám Phá Khoa Học Vĩ Đại Nhất Trong Lịch Sử: Khám phá số 97
11/04/2011

ĐẶC TÍNH CỦA KHỦNG LONG.

- Thời gian phát hiện: năm 1976.
- Nội dung phát hiện: khủng long đã hoạt động, di chuyển và sinh sống như thế nào.
- Người phát hiện: Robert Bakker.


Vì sao phát hiện ra đặc tính của khủng long lại có tên trong 100 phát hiện khoa học vĩ đại nhất?

Vào giữa thế kỷ XX, theo quan điểm truyền thống cho rằng: khủng long là một quái vật máu lạnh to lớn, di chuyển chậm chập, có màu nâu tối, khả năng duy trì nòi giống không tốt. Đây là những miêu tả trong các hình vẽ minh họa và cũng là nhận xét của các nhà cổ sinh vật học về loài khủng long. Robert Bakker là người đã đặt dấu chấm hết cho quan điểm này.

Robert Bakker là người đầu tiên cho rằng khủng long là động vật máu nóng, có màu sắc đa dạng, di chuyển rất nhanh, và phản ứng rất linh hoạt. Và ông cũng là người đầu tiên đưa ra kết luận khủng long chính là tổ tiên của loài chim. Sở dĩ chúng có thể nhìn thấy được hình ảnh của khủng long trong công viên kỷ Jurassic hay trong các bảo tàng khoa học đề nhờ phần lớn công lao của Robert Bakker. Phát hiện này của ông đã thay đổi một cách triệt để những miêu tả và khủng long.

Đặ tính của khủng long đã được phát hiện ra như thế nào?

Khi đang là sinh viên năm thứ hai tại trường Đại học Yale, vào một buổi tối khi Robert Bakker đi trong viện bảo tàng động vật tối tăm, ánh sáng ảm đạm của chiếc đèn chiếu vào bộ xương khủng long làm chúng giống như một chiếc bóng di động. Lúc này trong đầu Robert Bakker tự nhiên hiện nên một suy nghĩ: loài khủng long đã thống trị trái đất 165 triệu năm không thể là loài động vật máu lạnh đần độn, di chuyển chậm chạp. Các loài động vật có vú thông minh có ở khắp mọi nơi trên trái đất, khủng long phải có một sức mạnh phi thường, không thể đánh bại thì mới không bị các loài động vật có vú thông minh tiêu diệt.

Robert Bakker bắt đầu tiến hành độc lập nghiên cứu để chứng minh những quan điểm về khủng long hiện thời là hoàn toàn sai lầm. Ông đã căn cứ vào nguồn gốc của bốn loại thông tin để triển khai nghiên cứu: so sánh giải phẫu học(so sánh về kích thước và hình dạng trong những bộ phận cơ thể tương tự của nhiều loài khác nhau), vĩ độ sinh quyển(nơi mà động vật sinh sống), các ghi chép về hóa thạch(những sưu tầm về xương và bộ xương của khủng long trước đó) và sinh thái học (mối quan hệ giữa một loài động vật với môi trường sống của nó).

Trải qua ba năm nghiên cứu một cách triệt để về xương loài động vật có vú, Robert Bakker đã phát hiện ra rằng: xương của các loài động vật có vú giống với xưlowng khủng long, có chứa nhiều mạch máu và không có vòng sinh trưởng, điều này hoàn toàn tương phản với đặc điểm của loài bò sát máu lạnh. Ông còn khám phá ra rằng vào kỷ phấn trắng, khủng long có thể sinh trưởng phát triển ở phía bắc Canada, nơi mà các loài bò sát máu lạnh không thể tồn tại được. Cuối cùng, thông qua việc khảo sát hệ sinh thái ở Châu Phi và Bắc Mỹ, ông phát hiện rằng mỗi động vật ăn thịt máu nóng có trong lượng nặng hơn 1 pound so với động vật ăn thịt thuộc loài bò sát, và lượng thức ăn của chúng cũng nhiều gấp 6 đến 8 lần.

Thông qua những nghiên cứu những ghi chép về hóa thạch, Robert Bakker đã phát hiện ra rằng trong hai hệ sinh thái là khủng long và động vật máu nóng thì tỷ lệ giữa động vật ăn thịt và động vật ăn cỏ là phù hợp về căn bản.

Với số lượng tương đối cộng thêm xương và địa điểm sinh sống của khủng long đã chứng minh chúng là loài động vật máu nóng.

Robert Bakker tiến hành nghiên cứu phần chân của động vật trong sở thú, so sánh cấu tạo phần chân với phương thức di chuyển. Đường cong ở chân gà và chân ngựa vằn có gì khác biệt? Sự khác biệt này có mối liên quan gì với hoạt động di chuyển của chúng? Hình dạng bên ngoài và tác dụng của nó có ảnh hưởng đến nhau như thế nào? Từ hình dạng khớp và kích cỡ xương của khủng long chúng ta có thể hiểu được chúng đã di chuyển như thế nào không? Ông đã dùng hội họa để diễn tả lại loài vận động này, thể hiện rõ sự chuyển động của xương và các cơ của khủng long.

Thong qua việc so sánh kích cỡ, hình dạng và mật độ xương của khủng long với hàng trăm loài động vật hiện đại, ông đã phát hiện ra rằng cấu tạo xương của khủng long giống với cấu tạo xương của hầu hết các loại động vật có vú chạy nhanh và bền, chúng không phải bị làm kinh sợ rồi mới chạy nhanh mà bình thường chúng có thể chạy nhanh suốt 20 phút.

Cấu tạo của khủng long đã chứng minh chúng là loại động vật có khả năng chạy, điều này có nghĩa là chúng rất linh hoạt. Các loài động vật nặng về chậm chạp không có khả năng chạy nhanh bẩm sinh.

Robert Bakker lại một lần nữa nghiên cứu về hóa thạch, kết quả chỉ phát hiện ra số lượng rất ít các bộ xương của khủng long con, điều này cho thấy phần lớn khủng long còn có thể tiếp tục tồn tại, khủng long có khả năng chăm sóc và duy trì nòi giống.

Trong thời gian nghiên cứu sinh tại trường Đại học Harvard, Robert Bakker đã phát biểu khám phá của mình, thay đổi một cách triệt để những kết luận trước đây.

Nhưng phải trải qua 20 năm, sau khi nghiêm túc nghiên cứu về khối tư liệu khổng lồ, mọi người mới tin vào khám phá của Robert Bakker. Mặc dù khám phá của Robert Bakker đã làm thay đổi nhận thức của con người đối với loài khủng long, nhưng người ta vẫn cho rằng ông là một phần tử cấp tiến (nóng lòng muốn khám phá ra cái mới một cách vội vàng) không đáng tin cậy.



URL của bài viết này::http://www.schoolnet.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=5239

© Cong ty Cong Nghe Tin hoc Nha truong contact: sales@schoolnet.vn