Thượng nghị sỹ Hoa Kỳ Bob Kerry, Hiệu trưởng Đại học The New School, GS Henry Rosovsky đến từ Đại học Harvard, đồng chủ trì diễn đàn.
Tham gia phía Việt Nam có Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm, Bộ trưởng Giáo dục - Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân và đông đảo quan chức.
Bỏ bớt sự tập trung để giáo dục "nhảy vọt" như internet
Dự diễn đàn, ngoài Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết còn có Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm và Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân. Ảnh: AP
Có một điều thú vị, các diễn giả đều đánh giá cao những tiến bộ mạnh mẽ của Việt Nam hiện nay và khẳng định "những bước phát triển đó là không thể tưởng tượng được".
"Sự tăng trưởng kinh tế bền vững của Việt Nam đã vượt mọi kỳ vọng", ông Bob Kerry, một thượng nghị sỹ rất quan tâm và từng ủng hộ quá trình bình thường hóa quan hệ với Việt Nam khẳng định.
Theo ông, khi Việt Nam quyết tâm làm điều gì thì đều làm tốt và khó ai bì kịp. Đã quyết tâm sắt đá muốn phát triển kinh tế thì trong tương lai, Việt Nam sẽ có bước phát triển vượt bậc về kinh tế.
"Khi hỏi người dân Việt Nam có muốn phát triển như các nước ASEAN không, tôi đều nhận được câu trả lời: "Không, chúng tôi muốn phát triển nhanh, mạnh như Trung Quốc", David Dapice, Đại học Turfs nói.
Ông David Dapice đưa ra một hình dung rất cụ thể về sự phát triển của Việt Nam thông qua sự phát triển internet. Năm 2007, Việt Nam có tốc độ phát triển internet nhanh nhất thế giới trong khi chỉ mới 7 năm trước, Việt Nam thuộc loại thấp nhất.
Lý giải về sự "nhảy vọt" này, ông Dapice cho rằng khi Nhà nước tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với internet đã tạo nên sự nhảy vọt của internet tại Việt Nam.
Tốc độ phát triển internet thể hiện dân trí, trình độ phát triển xã hội. Trong tương lai, người dân ngày càng sử dụng internet nhiều thì văn minh, tri thức, kiến thức tăng lên, kéo theo sức cạnh tranh của Việt Nam cũng tăng.
"
Vì thế, nếu giáo dục Việt Nam bỏ bớt sự tập trung, quản lý quá sâu của Nhà nước thì có thể sẽ phát triển nhanh như internet", David so sánh.
Tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và con người của Việt Nam đang gặp khó khăn để bắt kịp với sự phát triển kinh tế bền vững đó.
Theo báo cáo phát triển thế giới, năm 2000, Việt Nam chỉ có 2% dân số có từ 13 năm đi học trở lên so với 5% của Trung Quốc, 8% của Ấn Độ, 15% ở Thái Lan và thấp hơn nhiều so với các nước châu Á khác.
Tỉ lệ người dân đi học đại học trong nhóm tuổi 20-24 năm 2004 của Việt Nam chỉ đạt 10%, bằng 1/4 Philippine và 1/4 Thái Lan.
Tỉ lệ này phản ánh rõ ràng thực tế rằng Việt Nam đang thiếu hụt lao động có kỹ năng mặc dù nền kinh tế "đang tăng trưởng đáng kinh ngạc".
"Hành động và hành động thật nhanh"
Tại diễn đàn, các diễn giả đã chia sẻ quan điểm "giáo dục đại học là động lực chính yếu cho phát triển xã hội và kinh tế".
2 năm trước, phái đoàn chuyên trách World Bank - UNESCO về giáo dục của Giáo sư Rosovsky và các cộng sự đã nghiên cứu khủng hoảng toàn cầu xảy ra đối với hệ thống giáo dục Đại học của các nước đang phát triển.
Nghiên cứu đã chỉ ra chất lượng "thấp một cách kinh ngạc" với chương trình giảng dạy lỗi thời, đội ngũ giảng viên được đãi ngộ kém, ít tận tụy, cơ sở hạ tầng lạc hậu và quản lý chất lượng sai lầm.
Phái đoàn này kêu gọi Chính phủ các nước đang phát triển "hành động và hành động thật nhanh". Chính phủ càng đầu tư nhiều vào cơ bản và giáo dục phổ thông thì càng kích thích nhu cầu của các cấp học cao hơn. Đó chính là giá trị của một hệ thống đa dạng với các trường đại học nghiên cứu ở vị trí đỉnh cao.
“Trường đại học hiện đại là một thực thể phức tạp. Những nỗ lực xây dựng nó thường thất bại. Hơn nữa, trong khi Chính phủ Việt Nam mong muốn có những trường đại học đẳng cấp quốc tế, thì vấn đề đặt ra là liệu có chấp nhận những tiền đề để đạt được mục tiêu này hay không, trong đó có cả việc trao quyền tự chủ cho các trường đại học và mở rộng không gian học thuật", Bob Kerry đặt vấn đề.
Tom Vallely ở Đại học
toàn diện giáo dục Đại học Việt Nam - người viết) đã bao hàm những nguyên lý chung này. Nhưng thách thức hiện nay là thực thi".
"Không nên nhập khẩu thuần túy một mô hình"
Chủ tịch nước tặng quà cho ông Bob Kerry, Hiệu trưởng Trường Đại học The New School. Ảnh: AP
Tại diễn đàn, các ý kiến một lần nữa khẳng định "những nguyên lý quản trị đại học hữu hiệu áp dụng đúng cho mọi nơi". Đó là cơ chế quản trị tự chủ, dựa vào tài năng minh bạch, tự do trong học thuật.
Theo Giáo sư Blair Sheppard (Hiệu trưởng bổ nhiệm Trường Kinh doanh Fuqua, Đại học Duke), Chính phủ các nước đang phát triển không thể cung cấp giáo dục đại học một mình hay kiếm tiền để mở rộng và nâng cao chất lượng đại học thông qua thuế. Mặt khác, cũng không thể phụ thuộc vào khu vực tư nhân, cũng như rơi vào những sai lầm quen thuộc trong các lĩnh vực như khoa học cơ bản, giáo dục tổng thể và tiếp cận giáo dục.
Bởi vậy, chính phủ phải xác định rõ vai trò của mình và khẳng định có thể cung cấp hay tạo điều kiện thuận lợi gì cho giáo dục. Đồng thời, cũng cần tạo điều kiện cho sinh viên đóng góp, cả tài chính và sức lực, cho giáo dục.
Nói như Tom Vallely, "thách thức thực thi" đòi hỏi giáo dục đại học phải thay đổi. Nhưng điều đó sẽ không loại bỏ vai trò của nhà nước bằng cách tăng sự tự chủ của các trường đại học và tăng hiệu quả của đầu tư nhà nước thông qua cạnh tranh.
Là một chuyên gia nghiên cứu về giáo dục đại học ở các nước phát triển, giáo sư Rosovsky, đại học Harvard lưu ý Việt Nam không nên chỉ nhập khẩu thuần túy một mô hình nào của nước ngoài mà "Đại học chất lượng cao là một thực thể kết hợp giữa tinh hoa của dân tộc và thực tiễn của đất nước tại thời điểm đó cùng với sự chọn lọc những mô hình hay của nước ngoài".
"Quan trọng là phải có nhà lãnh đạo đủ tầm, đủ tư duy, nhiệt huyết", giáo sư bày tỏ.
Ông Rosovsky cũng nhấn mạnh, không cần lo ngại chỉ những người giỏi mới vào được trường chất lượng cao. Ngược lại, đó là điều cần thiết, bởi "trường chất lượng cao phải là nơi tập trung trí tuệ cao nhất của xã hội".