- Phóng viên: Các chuyên gia thực hiện đề án “Những quan sát về giáo dục ĐH” có nhận xét rằng chương trình ĐH hiện nay có quá nhiều môn học, trên 200 tín chỉ để tốt nghiệp, chương trình cũng có quá nhiều yêu cầu mà ít sự lựa chọn... Ông có ý kiến gì khác?
- TS Nguyễn Đức Nghĩa: Nhận xét đó vừa đúng vừa không đúng, vì nếu quy tiết học từ 45 phút thành 60 phút thì cũng không quá nhiều. Nhưng việc làm gọn lại chương trình là cần thiết. Hiện nay, giảng viên nào cũng muốn có giờ giảng nên chúng ta có xu hướng xé nhỏ chương trình. Về việc đưa nhiều môn tự chọn vào như lời khuyên của họ sẽ làm chương trình bớt cứng nhưng do vấn đề tài chính, môn học chỉ có dưới 5 sinh viên chọn học sẽ khó mở.
- Việc học chuyển tiếp giữa các ngành học trong trường ĐH Việt Nam còn khó khăn, vì sao?
- Nhận xét này hoàn toàn đúng. Hiện nay, phần lớn các trường ĐH đều tuyển sinh theo ngành, mỗi ngành có một điểm chuẩn trúng tuyển. Nhiều trường quy định sinh viên trúng tuyển ngành nào sẽ theo học ngành đó trong suốt khóa đào tạo, rất ít trường hợp cho sinh viên chuyển đổi. Trong khi đó, ở nước ngoài, sinh viên sau 1 năm học muốn chuyển ngành chỉ cần 5 phút để làm thủ tục chuyển đổi. Nguyên nhân là năng lực đào tạo của các trường ĐH trong nước không đủ để tiếp nhận những người muốn học ĐH và nếu cho chuyển ngành sẽ dẫn đến việc thi ngành dễ đậu sau đó chuyển sang ngành khác.
- Thiếu giảng viên có đủ trình độ, giảng viên thiếu kiến thức cập nhật chuyên ngành. Ông có “tự ái” không với nhận xét này?
- Do quá tải, giờ dạy nhiều, bản thân giảng viên do khối lượng chương trình lớn nên muốn tự “nâng cấp” cho mình cũng khó. Do đó, phải có cơ chế phân bổ thu nhập của người thầy để họ có thể tập trung cho công tác nghiên cứu, nâng cao trình độ.
- Có một nhận xét khá lý thú là việc tuyển giảng viên từ những sinh viên tốt nghiệp chính trường mình, một việc làm thường xuyên của các trường, lại được cho là cản trở môi trường nghiên cứu năng động?
- Trong trường hợp trò giỏi hơn thầy thì tốt nhưng việc tuyển giảng viên là người làm ở các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác và có kinh nghiệm trong làm ăn kinh tế, quản lý thì bài giảng sẽ hay hơn.
- Còn việc đề nghị tăng trường ĐH trong khi nguồn lực giảng viên vẫn còn thiếu, theo ông đâu là giải pháp?
- Hiện nay, thanh niên trong độ tuổi học ĐH chỉ có 25% có chỗ học, còn 75% thì không. Do đó, việc tăng trường ĐH là cần thiết. Chúng ta cũng vạch ra mục tiêu đến năm 2020 sẽ có 600 trường ĐH. Như vậy, mỗi tháng sẽ phải có 2 trường ĐH ra đời! Việc này cũng không phải dễ vì đội ngũ giảng viên còn thiếu. Do đó cần xã hội hóa mạnh mẽ, cho nước ngoài đầu tư vào, góp phần nâng cao nhanh chóng số trường cũng như đội ngũ giảng viên, như vậy mới hy vọng thoát được vòng luẩn quẩn.
Ông Ngô Kim Khôi, Phó Vụ trưởng vụ ĐH và sau ĐH:
Sinh viên còn thiếu kỹ năng giải quyết vấn đề
Tôi cũng nhất trí một phần với nhận xét sinh viên hiện nay thiếu các kỹ năng làm việc như làm việc theo nhóm, quản lý dự án, phương pháp giải quyết vấn đề và giao tiếp bằng tiếng Anh... Thực ra, trong chương trình đào tạo có một thời lượng nhất định để sinh viên học tiếng Anh, nhưng thời lượng đó còn khá hạn chế và chỉ trang bị được những kiến thức ban đầu cho sinh viên. Trong hoàn cảnh chưa thể giảng dạy bằng tiếng Anh cho sinh viên, tôi nghĩ các sinh viên cần phải học thêm nhiều ngoài giờ chính khóa. Một điểm nữa cần phải giải quyết ở đây là các trường căn cứ vào nhu cầu đào tạo và nguồn nhân lực, chủ động bổ sung những phần còn thiếu trong chương trình.
Đối với nhận xét cho rằng việc tuyển giảng viên từ những sinh viên tốt nghiệp của chính trường mình làm giảm đi môi trường nghiên cứu năng động, tôi cho rằng chưa hẳn đã khách quan. Hiệu trưởng nhà trường là người hiểu rõ nhất mình cần những giảng viên như thế nào để tuyển chọn. Không nhất thiết phải tuyển toàn sinh viên trường mình cũng như toàn sinh viên trường khác, vấn đề cơ bản là thiếu vị trí nào thì tìm người phù hợp. Như thế thì hiệu quả cao hơn.
H.L.Anh ghi
VEF: Có 5 vấn đề cần được thay đổi
Việc khảo sát kết thúc vào tháng 5-2006, các chuyên gia đã đưa ra 5 nhóm vấn đề then chốt mà giáo dục ĐH ở Việt Nam cần được thay đổi.
Theo các chuyên gia, phương pháp giảng dạy trong trường ĐH Việt Nam nặng thuyết trình, ghi nhớ máy móc; chương trình có quá nhiều môn học (trên 200 tín chỉ), chương trình cũng có quá nhiều yêu cầu mà ít sự lựa chọn, nội dung môn học và chương trình đào tạo đã lỗi thời, thiếu tính linh hoạt trong việc chuyển tiếp giữa các ngành học...; thiếu giảng viên có đủ trình độ, sự chuẩn bị học thuật cho giảng viên còn ở trình độ thấp, thiếu các kỹ năng trong nghiên cứu và thực hành giảng dạy hiện đại; thiếu các kiến thức cập nhật về chuyên ngành... Giảng viên làm việc quá nhiều mà lương lại thấp dẫn đến việc thiếu thời gian cần thiết để chuẩn bị giáo án, tiếp xúc với sinh viên và nghiên cứu.
Việc tuyển giảng viên từ những sinh viên tốt nghiệp của chính trường mình, theo các chuyên gia, làm cản trở môi trường nghiên cứu năng động. Một vấn đề đáng chú ý trong các nhận xét của chuyên gia là ít có cơ hội cho các tiến sĩ đã được học tập ở nước ngoài tiếp tục nghiên cứu hoặc ứng dụng các phương pháp giảng dạy khi trở về Việt Nam.
Các chuyên gia đề xuất các giải pháp: Cho các trường có quyền chủ động nhiều hơn trong nội dung chương trình đào tạo; phát triển các trường ĐH nghiên cứu, các trường ĐH hàng đầu đào tạo giảng viên cho các trường ĐH khác; tuyển dụng các tiến sĩ sau khi tốt nghiệp từ nước ngoài về tham gia lãnh đạo, phổ biến việc áp dụng các kiến thức chuyên ngành, phương pháp giảng dạy và kỹ năng nghiên cứu.
Các chuyên gia kiến nghị Bộ GD-ĐT xem xét: Mở rộng hệ thống giáo dục ĐH ở Việt Nam, phân bố đều khắp cả nước để học sinh trung học có nhiều cơ hội hơn theo học ĐH. Hiện nay, số lượng 255 trường ĐH, CĐ là không đủ để đáp ứng nhu cầu...; chuẩn bị đội ngũ giảng viên tương lai được đào tạo ở trình độ cao bằng cách giao quyền cho các trường ĐH điểm đào tạo các giảng viên giỏi trong các ngành khoa học và công nghệ; cho phép các trường chủ động và linh hoạt trong việc cập nhật chương trình đào tạo... D.Hằng
Hạnh Vân thực hiện
vnschool.net (Theo http://www.nld.com.vn/tintuc/giao-duc/192705.asp)
|