Nhưng Bộ GD&ĐT vẫn phớt lờ dư luận, quyết định ban hành và thực hiện trong nhiều năm. Trong những năm đó, các nhà giáo, nhà khoa học, nhà báo đã tốn không biết bao giấy mực để phân tích, đánh giá, phản ánh hiệu quả và hậu quả của Bộ đề thi tuyển sinh.
Về cơ bản, “việc sử dụng bộ đề…, trong thực tế đã đề cao lối học vẹt. So với những điều có sẵn, văn hóa riêng và óc sáng tạo của học sinh và thầy giáo phổ thông được coi là thừa, không cần thiết đối với việc thi vào các trường đại học” (2).
Điều dễ hiểu, những năm đó đất nước mới thực hiện công cuộc đổi mới, mọi người, mọi ngành được tiếp xúc với thế giới với nhiều điều mới lạ và có lẽ đây chính là tư duy của một số người cấp tiến muốn nhanh chóng xoá bỏ, thay thế cái cũ, áp dụng cái mới để tiến nhanh, tiến mạnh.
Thực tế đã chứng minh, sau gần 10 năm thực hiện, Bộ đề thi tuyển sinh đã bị loại bỏ nhưng hậu quả của nó thì quá nhiều: Sản phẩm là học vẹt, học gạo, dạy thêm - học thêm tràn lan, tiêu cực thi cử…
Đặc biệt, Bộ đề thi tuyển sinh là nguồn gốc sinh ra các hậu quả không nhỏ cho quá trình dạy và học ở bậc phổ thông và cho việc tuyển sinh vào các trường đào tạo mà đến nay chúng ta vẫn đang trong quá trình khắc phục hậu quả của nó. Tuy nhiên, những người sản sinh ra Bộ GD&ĐT đề thi tuyển sinh thì vẫn bình an vô sự.
... đến thi trắc nghiệm
Thi TN đã được Bộ GD&ĐT triển khai ở một số môn học, trong vài năm qua, đã có nhiều ý kiến. Hiện nay, ngành GD&ĐT đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học là cần thiết, nhưng không đồng nghĩa là phải thi TN, phải “bôi đen” như Giáo sư Văn Như Cương đã đề cập trong một bài viết gần đây.
Thi TN là kinh nghiệm quốc tế nhưng quốc tế nào thì cần phải suy xét cho kỹ. Không phải cứ kinh nghiệm quốc tế là tốt cả; có thể tốt với quốc gia này mà không tốt với quốc gia kia.
Hiệu quả của thi TN ai cũng thấy rõ : tiết kiệm, tiện lợi, chính xác, nhanh… nhưng ẩn đằng sau hiệu quả đó, có thể là hậu quả khó lường, trên nhiều mặt, nếu áp dụng rộng rãi, nóng vội, trong đó nổi bật là triệt tiêu sáng tạo.
Toán học, Hóa học, Vật lý học, Ngôn ngữ học, Văn học… tất cả các môn học đều cần sự sáng tạo. Sáng tạo là yếu tố đang được mọi quốc gia đề cao như là một nhân tố có tính quyết định cho sự phát triển của các quốc gia trong thế kỷ 21.
Vì vậy, thi TN cần phải tính toán để đánh giá đúng mức giữa năng lực nhớ máy móc trong tương quan với óc sáng tạo của con người. Việc áp dụng thi TN rộng rãi, cực đoan, không tính đến việc thi truyền thống – Tự luận, có thể dẫn tới mâu thuẫn khó giải quyết của người giáo viên như khi áp dụng Bộ đề thi tuyển sinh:
“Anh ta vừa phải thực hiện tinh thần của cải cách giáo dục nghĩa là phát huy cao độ vai trò chủ thể sáng tạo của học sinh, đồng thời anh ta phải chống lại cải cách giáo dục” (3) tức là dạy học sinh theo cách thi TN. Hai hoạt động triệt tiêu kết quả lẫn nhau.
Thi TN cần phải được nghiên cứu toàn diện, trong mối liên hệ với các khâu khác, như: cách dạy, cách học, sách giáo khoa, đặc điểm con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam…
Áp lực đối với giáo dục và đào tạo là rất lớn, nhưng không phải vì áp lực là nóng vội, thiếu nghiên cứu toàn diện khi thực hiện đổi mới, áp dụng kinh nghiệm quốc tế. Đối tượng của giáo dục, đào tạo là con người và sản phẩm của giáo dục và đào tạo cũng là con người.
Vì vậy, mỗi sai lầm trong đổi mới, thực hiện một chủ trương mới của ngành giáo dục và đào tạo sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến một hoặc nhiều thế hệ, không có điều kiện để khắc phục hậu quả của nó.
Tư duy Bộ đề thi tuyển sinh những năm cuối thế kỷ 20 cần được xem là bài học quan trọng đối với việc áp dụng thi trắc nghiệm nói riêng và đổi mới giáo dục nói chung.
Đã có nhiều ý kiến về thi trắc nghiệm, cũng giống như trước đây khi áp dụng Bộ đề thi tuyển sinh. Mong rằng, Bộ GD&ĐT phân tích, đánh giá, nhìn nhận kỹ hơn, sâu hơn, toàn diện hơn hiệu quả và hậu quả khi áp dụng thi TN rộng rãi gây ra để tránh gây ra hậu quả của tương tự sử dụng Bộ đề thi tuyển sinh những năm trước.
Nhật Anh
(1) Bộ đề thi tuyển sinh và hướng dẫn làm bài thi vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tôi gọi tắt là Bộ đề thi tuyển sinh.
(2) “Lê Tuấn Anh cuộc đời và trang viết - Nhìn nhận, đánh giá”, NXB Thanh niên, 2006, Tr 213.
(3) “Lê Tuấn Anh cuộc đời và trang viết – Nhìn nhận, đánh giá”, NXB Thanh niên, 2006, Tr 214.